Trang chủ » Hoạt động chuyên môn » BÀN VỀ CHỨC NĂNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT CÔNG CHỨNG VÀ PHẠM VI CÔNG CHỨNG

BÀN VỀ CHỨC NĂNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT CÔNG CHỨNG VÀ PHẠM VI CÔNG CHỨNG

CCV. Lê Ngọc Tình – Phó Trưởng phòng, 

Phòng Công chứng số 2 TP.HCM

LỜI MỞ ĐẦU VÀ ĐẶT VẤN ĐỀ 

Nhận thức và xác định rõ bản chất, chức năng của hoạt động công chứng và tổ chức  hành nghề công chứng (TCHNCC), phạm vi điều chỉnh của luật công chứng, phạm vi công chứng có ý nghĩa quan trọng quyết định đến sự phát triển của nghề công  chứng từ quá khứ đến hiện tại và định hình tương lai. Thái độ, hành vi, chất lượng  và hiệu quả công việc cũng phụ thuộc vào nhận thức đúng đắn của chúng ta về nghề  nghiệp định vị chúng ta là ai, chúng ta đang làm gì, chúng ta có trách nhiệm gì, vì  mục đích gì, vì sao nghề nghiệp này tồn tại và nó có lịch sử ra đời và phát triển ra  sao, hiện tại và tương lai thế nào?

Với xã hội có Nhà nước và pháp luật thì việc duy trì trật tự xã hội cần bắt đầu từ việc  phòng ngừa rủi ro bởi hành vi vi phạm pháp luật, qua đó mà hạn chế tranh chấp, kiện  tụng kéo dài gây tốn kém cả công sức và tiền của, để lại nhiều hệ lụy khó khắc  phục… và đến lúc đó, để bảo đảm duy trì trật tự xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp  pháp, chính đáng của người dân, bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật, Nhà nước phải  huy động cả hệ thống cơ quan quản lý và cơ quan xét xử giải quyết. Vì vậy, với các  giao dịch dân sự quan trọng liên quan đến nhân thân, tài sản có giá trị lớn, có sự tác  động lan tỏa trên nhiều lĩnh vực đời sống dân cư, đến sự ổn định phát triển kinh tế – xã hội thì việc chuẩn hóa về nội dung và hình thức để tránh các hậu quả tiêu cực cho  xã hội, giảm tải cho hệ thống cơ quan quản lý và cơ quan xét xử là điều cần thiết.  Nhà nước cũng cần quản lý và kiểm soát được các giao dịch dân sự này ở một mức  độ nhất định. Công chứng là một biện pháp, một công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực  hiện các mục tiêu nêu trên. Tại sao công chứng lại làm được điều này một cách hiệu  quả với chi phí xã hội thấp? Chúng ta hãy tìm về nguồn cội lịch sử để biết được vì  sao công chứng ra đời, tồn tại và phát triển đến ngày nay, công chứng có những chức  năng gì và giới hạn trong phạm vi nào để hiểu rõ hơn về nội hàm của khái niệm công  chứng. 

Phòng Công chứng số 2 TPHCM

I. LƯỢC SỬ CÔNG CHỨNG VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHỨC NĂNG CỦA  CÔNG CHỨNG 

Nghề nào cũng có lịch sử hình thành và quá trình phát triển gắn liền với điều kiện  kinh tế – xã hội ở từng giai đoạn phát triển, tại mỗi vùng đất – lãnh thổ quốc gia,  không gian sinh tồn trong điều kiện lịch sử cụ thể gắn liền với con người, văn hóa, tôn giáo, hoạt động lao động sản xuất, giao thương, buôn bán… làm phát sinh các  nhu cầu của xã hội loài người cần được thỏa mãn. Lịch sử thế giới cho thấy công  chứng đã có từ thời La Mã cổ đại, nó được nhìn nhận như một cách thức thu thập và  lưu giữ chứng cứ trong các giao dịch dân sự. 

Nhận thức về khái niệm công chứng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định hình  thể chế công chứng. Vì khi có nhận thức đúng đắn, đầy đủ thì mới có thể xây dựng  được những quy định phù hợp với điều kiện thực tiễn, góp phần phục vụ sự phát  triển kinh tế – xã hội. Công chứng (Notarial) là hoạt động của công chứng viên. Công  chứng viên theo tiếng La-tinh là “Notarius“. “Notarius” trong luật Anh cổ là một  người sao chép hay trích lục các loại văn bản, giấy tờ khác, người làm chứng. Trong  luật La Mã, công chứng viên là người ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các  hoạt động trong nghị viện của tòa án, hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người  soạn các di chúc và giấy chuyển nhượng sở hữu. Theo cách giải thích trên, xét về  nguồn gốc, công chứng là nghề sớm xuất hiện trong lịch sử loài người (từ thời La  Mã cổ đại), với vai trò ghi chép, soạn thảo văn bản và làm chứng.  

Tuy nhiên, qua khảo cứu về Bộ luật Hammurabi của Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại,  chúng ta sẽ thấy hình bóng của hoạt động công chứng đã dần hình thành cách xa thời  đại chúng ta gần 4.000 năm lịch sử. Trong Bộ luật này, có rất nhiều điều luật quy  định việc mua bán “trước sự chứng kiến của một người làm chứng”; “giao kết hợp  đồng phải được lập thành văn bản và có người làm chứng”, “Đây là tài sản của tôi.  Một người bán hàng đã bán nó cho tôi và tôi mua nó trước sự chứng kiến của một  người làm chứng”… “và khi có tranh chấp thì phải đưa người làm chứng đến trước  mặt thẩm phán…”1 Và có thể đến thời Đế chế La Mã qua lịch sử tiếp xúc giữa các  nền văn minh, tiếp biến văn hóa cùng các hoạt động giao thương, buôn bán, các cuộc  chiến tranh và thôn tính lẫn nhau đã tiếp thu, học hỏi và phát triển các quy định này  phục vụ cho sự thịnh vượng, hùng mạnh của đế chế, và theo thời gian hoạt động này  dần thành một nghề với tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao. 

Nghiên cứu các tài liệu về công chứng cho thấy, trên thế giới có các hệ thống công  chứng: Hệ thống công chứng La-tinh tương ứng với hệ thống luật La Mã (còn gọi là  hệ thống pháp luật dân sự Civil Law); hệ thống công chứng Anglo Saxon tương ứng  với hệ thống pháp luật Anglo Saxon (Common Law). Còn riêng hệ thống công chứng  tập thể (Collectiviste) lại có quan niệm về công chứng khác với hệ thống công chứng  La tinh và hệ thống công chứng Anglo Saxon. Hệ thống công chứng Collectiviste,  công chứng chưa được coi là một nghề (công chứng viên là công chức nhà nước,  kiêm nhiệm cả việc chứng thực (thị thực hành chính); việc công chứng được giao  cho cả các chủ thể không phải là công chứng viên đảm nhiệm; công chứng viên  không có chứng chỉ hành nghề, không phải chịu trách nhiệm dân sự trước khách hàng, chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính trước nhà nước về những sai phạm trong  hoạt động của mình. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, biến thể của công chứng  trong lịch sử và trên thế giới có rất nhiều, tùy vào thời kỳ lịch sử, tùy vào hệ thống  pháp luật của từng quốc gia mà nó sẽ có những đặc điểm riêng, nhưng nhìn chung  công chứng là một hoạt động pháp lý mang tính chất phòng ngừa, xuất phát từ nhu  cầu bảo đảm an toàn pháp lý và duy trì trật tự xã hội. Công chứng viên (CCV) là một  chức danh tư pháp, được sinh ra để thực hiện hoạt động công chứng, đáp ứng nhu  cầu của xã hội.

Hoạt động công chứng và nghề công chứng ở Việt Nam: 

Trước thời Pháp thuộc, Việt Nam chưa có công chứng, nghề công chứng. Hoạt động  công chứng chỉ xuất hiện ở Việt Nam, kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta,  mục đích chủ yếu là phục vụ cho chính sách cai trị của Pháp tại Đông Dương nói  chung và Việt Nam nói riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt  Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Ngày 01/10/1945, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký nghị  định bãi chức ông DEROCHE và bổ nhiệm ông Vũ Qúy Vỹ mang quốc tịch Việt  Nam thay thế công chứng viên người Pháp tại Hà Nội. Nghị định quy định các luật  lệ cũ về CCV vẫn được thi hành, trừ các khoản không phù hợp với nền độc lập và  chính thể dân chủ cộng hòa. Có thể nói đây là tổ chức công chứng đầu tiên của nhà  nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tổ chức công chứng mang đậm dấu ấn của công  chứng Pháp. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, ngay sau Cách mạng tháng Tám thành  công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập là sự xuất hiện của các đội  quân xâm lược tràn vào nước ta, đe dọa đến nền độc lập non trẻ và tiếp đến là ngày  toàn quốc kháng chiến, sau đó là cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh vì độc  lập, tự do của dân tộc, thống nhất đất nước nên hoạt động công chứng ở miền Bắc  chỉ hoạt động trong một thời gian rất ngắn. Mặc dù trong hoàn cảnh đất nước như  vậy, nhưng các giao dịch dân sự (tuy không nhiều) vẫn phát sinh và được thực hiện.  Vì vậy, để đáp ứng các nhu cầu giao dịch dân sự của nhân dân, ngày 15/11/1945 Hồ  Chủ tịch ký Sắc lệnh 59/SL quy định về thể lệ thị thực các giấy tờ với nội dung trình  tự, thủ tục thị thực giấy tờ cho công dân trong giao lưu dân sự như mua bán, trao  đổi, chứng nhận địa chỉ cụ thể của một người tại địa phương. Đến ngày 29/02/1952  Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 85/SL quy định về thể lệ trước bạ về các việc mua, bán,  cho, đổi nhà cửa, ruộng đất. Do điều kiện lịch sử bấy giờ nên Sắc lệnh 85/SL chỉ áp  dụng đối với những vùng tự do hoặc những vùng thuộc Uỷ ban kháng chiến. Cũng  theo Sắc lệnh này, Uỷ ban kháng chiến cấp xã hoặc xã được nhận thực vào văn tự  theo hai nội dung: nhận thực chữ ký của các bên mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng  đất, và nhận thực người đứng ra bán, cho, đổi là chủ của những nhà cửa, ruộng đất,  đem bán trao đổi.

Còn ở miền Nam từ năm 1945 đến năm 1954, hoạt động công chứng vẫn do CCV người Pháp đảm nhiệm, sau năm 1954 đổi thành Chưởng Khế, Phòng chưởng khế  đầu tiên của Sài Gòn nay là trụ sở Phòng Công chứng số 1 TP.HCM. 

Từ năm 1975 đến năm 1987: Sau khi đất nước thống nhất, đây là giai đoạn khắc  phục hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại trong khi vẫn phải tiếp tục các cuộc chiến  tranh biên giới: Tây Nam 1979, phía Bắc (17-2-1979-1988). Thời kỳ này cho đến  trước giai đoạn “Đổi mới”, cả nước xóa bỏ chế định công chứng, không còn tồn tại  hoạt động công chứng nữa. Trong giai đoạn này nước ta thực hiện chế độ bao cấp,  ngăn sông cấm chợ, tự cung tự cấp, chế độ tem phiếu, Nhà nước trực tiếp quản lý  mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội, phân phối hàng hóa nên thực tế các hoạt động  mua bán, tự do giao thương gần như không có “đất” để sinh sôi, làm triệt tiêu động  lực cho sự phát triển giao dịch dân sự. 

Từ năm 1987 đến ngày 01/7/2007: Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nước ta thực hiện  đường lối “Đổi mới”, liền ngay sau đó công chứng được tái lập, bởi khi các giao  dịch dân sự có điều kiện để phát triển thì cũng ngay lập tức phát sinh nhu cầu bảo  đảm an toàn pháp lý như một tất yếu khách quan, với 02 văn bản quy phạm pháp  luật đầu tiên của Bộ Tư pháp, đặt nền móng cho việc tái lập hoạt động công chứng  ở nước ta là Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 quy định về công tác công  chứng nhà nước (Thông tư 574/QLTPK) và Thông tư số 858/QLTPK ngày  15/10/1987 hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng. 

Tại thời điểm này, chủ thể duy nhất thực hiện công chứng là Phòng Công chứng.  Căn cứ vào 02 thông tư trên, các tỉnh, thành trên cả nước đã lập ra các Phòng Công  chứng, dần dần hình thành mạng lưới các Phòng Công chứng trên cả nước. Sau đó  là 03 nghị định của Chính phủ: Nghị định số 45-HĐBT ngày 27-02-1991 về tổ chức  và hoạt động của công chứng Nhà nước, tiếp theo được thay thể bởi Nghị định số  31/CP ngày 18-5-1996 (Nghị định 31/CP), tiếp nữa là Nghị định số 75/2000/NĐ-CP  ngày 08-12-2000 về công chứng, chứng thực (Nghị định 75/2000/NĐ-CP). 

Cho đến trước ngày 01/7/2007, là ngày Luật Công chứng năm 2006 có hiệu lực thi  hành, cả nước mới chỉ có 131 phòng công chứng với 393 CCV. Nhưng sau 05 năm  thực hiện Luật Công chứng năm 2006 cả nước đã có 625 TCHNCC với 1.180 CCV;  và sau 05 năm thực hiện Luật Công chứng năm 2014 cả nước có 1.151 TCHNCC với 2.782 CCV, tổng kết 07 năm thi hành đã tăng lên 1.298 TCHNCC với 3.074  CCV thực tế đang hành nghề theo báo cáo của các Sở Tư pháp trên cả nước (số CCV  được Bộ Tư pháp bổ nhiệm là 3.530 CCV). Các việc làm công chứng đã tăng từ 07  triệu việc sau 05 năm thực hiện Luật Công chứng năm 2006 lên 27 triệu việc sau 05  năm thực hiện Luật Công chứng năm 2014, và theo số liệu thống kê 07 năm thực  hiện Luật Công chứng năm 2014 đã cho thấy sự bùng nổ với 41 triệu việc trừ bản dịch thì vẫn còn trên 38,4 triệu việc là hợp đồng, giao dịch dân sự được công chứng).

Số liệu thống kê của Bộ Tư pháp đã vẽ lên những nét cơ bản bức tranh tổng thể về  sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động công chứng và nghề công chứng. Công chứng  đã dần khẳng định vai trò, vị trí của mình và thực sự đã trở thành một phần tất yếu  trong cuộc sống đến mức mỗi khi cần giao dịch gì với nhau là người dân nghĩ ngay  đến “đi công chứng”. Đây là minh chứng cho sức sống của công chứng đã bám rễ  sâu vào đời sống và đáp ứng nhu cầu của xã hội, của từng người dân. 

Từ thực tiễn lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động công chứng cho đến khi  được xem là một nghề trên thế giới và ở Việt Nam, đã chứng minh cho chúng ta thấy  rằng, ở đâu có tự do giao thương, buôn bán, trao đổi, giao dịch dân sự sôi động, có nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường ở đó sẽ phát sinh nhu cầu bảo đảm an toàn  cho giao dịch và từ đó xuất hiện nhu cầu cần có người làm chứng khách quan, trung  thực, đứng giữa, không thiên vị, không bị ảnh hưởng bởi quyền, nghĩa vụ và sự thỏa  thuận của các bên để phòng ngừa, hạn chế rủi ro, khi có tranh chấp xảy ra thì các  tình tiết, sự kiện được ghi nhận thành văn bản trên cơ sở ý chí và sự tự do thể hiện ý  chí sẽ là căn cứ xác thực để các bên yên tâm thực hiện hoặc lấy đó làm bằng chứng  phân xử với nhau. Theo thời gian, dần hình thành một bộ phận người làm chứng  chuyên nghiệp và khi xã hội ngày càng phát triển, đòi hỏi người làm chứng đó phải  là những người có kiến thức pháp luật, khách quan, trung thực, có đạo đức, tạo niềm  tin cho các bên. Và nghề công chứng ra đời như một quy luật tất yếu khách quan để  đáp ứng nhu cầu của xã hội với chức năng xuất phát từ chính bởi nhu cầu của xã hội  mà hình thành để rồi được Nhà nước thừa nhận, công nhận và quy định thành luật. 

Chức năng là nhiệm vụ, công dụng và vai trò. Tuy nhiên, chức năng của nghề công  chứng tự nó không biến thành hiện thực mà phải thông qua hành vi của CCV, cho  dù Điều 3 Luật Công chứng năm 2014 hiện hành đã khẳng định: “Công chứng viên  cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm an toàn pháp  lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo  vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế – xã  hội.”. Chức năng của CCV được pháp luật quy định chỉ mới là điều kiện cần, điều  kiện đủ là việc thực hiện trong thực tế ra sao. Điều đó cũng phần nào giải thích cho  lý do tại Hội nghị thành lập Hiệp hội CCV Việt Nam vào ngày 13-14/01/2019 tại Hà  Nội, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long đã nhắn gửi thông điệp đến các CCV  khi hành nghề phải bảo đảm: “CHẤT LƯỢNG – CHUYÊN NGHIỆP – ĐẠO ĐỨC”.  Đây là một thông điệp rất sâu sắc và tinh tế, bởi CCV khi hành nghề mà không thể  bảo đảm và xác định được Chất lượng là kết quả của quá trình hành nghề, Chuyên  nghiệp là phương pháp làm việc và Đạo đức là nền tảng thì không thể thực hiện tốt chức năng của mình và tạo ra giá trị bền vững cho nghề công chứng trong việc đem  lại lợi ích mà xã hội cần.

II. PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT CÔNG CHỨNG VÀ PHẠM VI  CÔNG CHỨNG

1.Phạm vi điều chỉnh của Luật Công chứng 

Theo các nguyên tắc cơ bản của hệ thống công chứng La-tinh, được xem là những  nguyên tắc cốt lõi của tổ chức công chứng và mô hình công chứng mà tất cả thành viên đều phải hướng tới, Việt Nam đã trở thành thành viên từ năm 2013. Tại Phần I: Công chứng viên và chức năng của công chứng viên, các nguyên tắc này đã nêu rõ:  “1. Công chứng viên, một người hành nghề luật, là một chức danh công, do Nhà nước bổ nhiệm để xác thực các văn bản pháp lý và hợp đồng mà công chứng viên soạn thảo và để tư vấn cho những người cần đến dịch vụ công chứng. 2. Công chứng viên là người nắm giữ quyền lực công nhưng thực hiện chức năng của mình một cách khách quan và độc lập ngoài hệ thống thứ bậc hành chính của cơ quan Nhà nước. 3. Hoạt động công chứng bao gồm toàn bộ các hoạt động pháp lý ngoài tố  tụng, nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể pháp luật, phòng ngừa các  tranh chấp có thể phát sinh mà công chứng viên có thể giải quyết được bằng việc  thực hiện nhiệm vụ trung gian pháp lý và là một công cụ không thể thiếu được để  quản lý một nền tư pháp hiệu quả.”

Vì vậy, việc xác định phạm vi điều chỉnh của Luật Công chứng, phạm vi công chứng không thể không xem xét để nội luật hóa các nguyên tắc này cho phù hợp với điều  kiện và hoàn cảnh phát triển của đất nước, hội nhập và thực hiện các cam kết quốc  tế, nhất là khi chúng ta đang tiến hành các bước để xây dựng Luật Công chứng (sửa  đổi) thay thế Luật Công chứng năm 2014. Để có cái nhìn khái quát về phạm vi này,  chúng ta hãy cùng điểm lại các mốc lịch sử từ lúc nước ta tái lập hoạt động công chứng cho đến khi công chứng đã được công nhận là một nghề, được xã hội thừa  nhận và tôn trọng. Qua đó làm rõ hơn lý do tại sao Việt Nam theo đuổi mô hình của  hệ thống công chứng La-tinh chứ không phải là mô hình khác. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời đã từng khẳng định: “Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính quyền, cho nên càng phải tinh thành đoàn kết, hợp tác chặt chẽ với  các cơ quan khác, để tránh những xích mích lẫn nhau, nó có thể vì lợi quyền nhỏ và riêng mà hại đến quyền lợi to và chung cho cả tư pháp và hành chính. Các bạn là  những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu cao  cái gương “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư” cho dân noi theo.”3. Người cũng  đã chỉ ra cho chúng ta một tầm nhìn về nền tư pháp tốt là “Phải làm sao đóng góp  làm cho nước được độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ”, để sao cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, dù việc “Xét xử đúng là tốt, nhưng nếu  không phải xét xử thì càng tốt hơn”4.

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách  tư pháp đến năm 2020” đã xác định quan điểm: Cải cách tư pháp phải xuất phát từ  yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, tiếp  thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta  và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội  trong tương lai.  

Một trong các giải pháp mà Nghị quyết này đưa ra là: hoàn thiện pháp luật dân sự,  bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch,  thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh; hoàn thiện chế định hợp đồng;  hoàn thiện chế định công chứng, xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng  thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng.

Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030 tại  Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII cũng đã xác định rõ5:

Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng  bộ, hiện đại, hội nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch. Tăng cường hiệu lực, hiệu  quả các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm  minh. 

Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi  hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, phục vụ người dân, doanh  nghiệp,…, giảm tối đa rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ đối với người dân  và doanh nghiệp. Đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số  …; thiết kế đồng bộ, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối  liên thông các cơ sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế, giáo dục, bảo  hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển  kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. 

Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm  minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp  có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo  vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp  pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Tăng cường khả năng tiếp cận pháp  luật của người dân và doanh nghiệp. Phát triển hoạt động dịch vụ pháp lý  và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án.

Mô hình công chứng hiện nay của Việt Nam lựa chọn theo trường phái Công chứng  La-tinh là một công cụ thể chế hóa, hiện thực hóa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí  Minh và phù hợp với truyền thống văn hóa, lịch sử và tâm lý ứng xử của dân tộc  Việt Nam là trọng đạo lý, không ưu kiện tụng, việc tranh chấp kéo nhau ra tòa là chuyện không ai mong muốn với quan niệm “vô phúc đáo tụng đình”. Thực tiễn xã  hội và cuộc sống đã chứng minh đối thoại và thảo luận chắc chắn là hai con đường  để đạt được những quyết định đúng đắn làm hài lòng các bên. Công chứng là việc  chứng nhận tính xác thực và hợp pháp của những chủ thể bình đẳng về quyền và  nghĩa vụ với nhau trên cơ sở tôn trọng sự thỏa thuận và đồng ý – thống nhất ý chí  thông qua đối thoại và thảo luận để đồng thuận về nội dung hợp đồng, giao dịch với  sự tự do ý chí, tự nguyện cam kết, thỏa thuận nên sẽ là con đường tốt nhất phòng  ngừa rủi ro, hạn chế tranh chấp, bảo đảm an toàn pháp lý, góp phần bảo vệ quyền  con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà  nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. 

Nhìn lại phạm vi điều chỉnh được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật  về công chứng từ khi tái lập với Thông tư 574/QLTPK cho đến trước thời điểm hết  thời gian thực hiện Nghị định số 31/CP vào ngày 01/4/2001, khi Nghị định  75/2000/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, pháp luật nước ta chưa có sự phân biệt giữa  công chứng và chứng thực. Tất cả các công việc do Phòng Công chứng hay Ủy ban  nhân dân cấp xã, Phòng Tư pháp cấp huyện thực hiện đều được gọi là việc làm công  chứng. Theo đó, công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và  giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công  dân và cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, góp phần phòng ngừa vi  phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các việc làm công chứng có  thể được giao cho cả Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện chứng nhận, chứng thực,  và một số giao dịch như thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thì phải  được xác nhận của Sở Địa chính – Nhà đất. Và đối với bất động sản trong khu công  nghiệp, khu kinh tế pháp luật còn giao cho cả Ban Quản lý khu công nghiệp, khu  chế xuất, khu kinh tế thẩm quyền được xác nhận hợp đồng, văn bản về những bất  động sản này6.

Giai đoạn thi hành Nghị định 75/2000/NĐ-CP đã bắt đầu có sự phân biệt công  chứng – chứng thực nhưng vẫn quy định chung trong cùng một văn bản tầm nghị  định. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa công chứng và chứng thực về cơ bản mới chỉ ở  mức độ hình thức, khía cạnh chủ thể thực hiện công chứng – chứng thực, có nghĩa  là nếu cùng một việc mà do Phòng Công chứng thực hiện thì gọi là công chứng, nếu  do UBND cấp huyện, cấp xã thực hiện thì gọi là chứng thực, chưa phân biệt đối  tượng nào thì công chứng, đối tượng nào thì chứng thực.

Sau đó, Luật Công chứng năm 2006 ra đời, đánh dấu một bước phát triển mới với  sự thừa nhận công chứng là một nghề và bắt đầu được xã hội hóa thu hút sự tham  gia của khối tư nhân, huy động các nguồn lực xã hội. Đến lúc này, đã có sự tách biệt  rõ ràng giữa công chứng và chứng thực. Việc chứng thực đã được quy định trong  một văn bản khác không còn thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Công chứng, CCV  đã bị “tước bỏ” thẩm quyền chứng nhận bản sao, chữ ký, bản dịch, và việc này được  giao về cho Ủy ban nhân dân cấp xã và các Phòng Tư pháp cấp huyện. Việc chuyển  giao các công việc chứng nhận bản sao, chữ ký, bản dịch giai đoạn này cũng có tính  khách quan khi mà số lượng hợp đồng, giao dịch ngày càng gia tăng, trong lúc số  lượng CCV và Phòng Công chứng chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội do luôn  trong tình trạng quá tải trầm trọng, nhất là tại các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố  Hồ Chí Minh…, các việc chứng nhận bản sao giấy tờ, tài liệu luôn chiếm tỷ lệ lớn  khoảng 60-90% công việc hàng ngày, kéo theo đó là làm chậm thời gian giải quyết  công chứng các hợp đồng, giao dịch cho người dân, doanh nghiệp. Trong khi các  công việc này chưa phản ánh đúng bản chất, chức năng thực sự của công chứng nên  nhu cầu của xã hội đòi hỏi phải giải phóng các Phòng Công chứng thoát khỏi việc  chứng nhận bản sao giấy tờ để CCV tập trung vào hoạt động bổ trợ tư pháp, hướng  đến sự chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa của một nghề.  

Xã hội hóa hoạt động công chứng thời gian đầu còn ngập ngừng, bở ngỡ với cả cơ  quan quản lý nhà nước và người của khối tư nhân tham gia vào hoạt động bổ trợ tư  pháp, cung cấp dịch vụ công về pháp lý, nhưng khi việc thực hiện xã hội hóa theo  Luật Công chứng năm 2006 đã vào guồng thì ngay lập tức có sự tăng tốc phát triển  cả về quy mô TCHNCC và số lượng CCV, mỗi ngày một nhiều hơn, dần phủ sóng  khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước. Năm 2009, Chính phủ đã có chủ trương  chuyển giao thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch từ UBND cấp xã về cho  công chứng với quy định tại Điều 26.4.b Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày  19/10/2009: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện các biện pháp phát  triển tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương để đáp ứng yêu cầu công chứng  hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn  liền với đất; xem xét, quyết định chuyển giao việc chứng thực các hợp đồng, giao  dịch mà Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã đang thực hiện sang tổ chức hành  nghề công chứng ở địa bàn cấp huyện mà tổ chức hành nghề công chứng đáp  ứng được yêu cầu công chứng; đối với những nơi chưa có quyết định chuyển giao  của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì người tham gia hợp đồng, giao dịch có quyền lựa  chọn công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện theo quy  định của pháp luật.”. Thật đáng tiếc là chính sách với tầm nhìn sáng suốt này đã  không được thực hiện nhất quán, quyết liệt đến cùng nên không tạo được động lực  thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ cho nghề công chứng, giúp giảm đi biên chế công chức và nguồn ngân sách chi trả cho hoạt động của các cơ quan hành chính khi vào năm 2013, 2014 Quốc hội lần lượt ban hành Luật Đất đai, Luật Nhà ở mà vẫn quy  định song song thẩm quyền và giá trị pháp lý khác nhau về cùng một đối tượng là  quyền sử dụng đất và nhà ở, trao cho người dân quyền quyết định lựa chọn giữa công  chứng và chứng thực. Việc này đã để lại nhiều hệ quả khó khắc phục, nhất là việc  không xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất, kết nối, liên thông, không  ít trường hợp một tài sản bị giao dịch nhiều lần vào cùng một thời điểm tại cơ quan  chứng thực và tại TCHNCC, vô tình đã tạo kẽ hở cho các hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản.

Đến năm 2014, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 được Quốc hội ban hành, có  hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 thay thế Luật Công chứng năm 2006 đã mở  rộng phạm vi điều chỉnh, theo đó CCV lại được giao thẩm quyền chứng thực bản  sao, chữ ký theo quy định của pháp luật về chứng thực, đồng thời CCV cũng được  công chứng bản dịch và xem bản dịch là văn bản công chứng. 

Việc Luật Công chứng năm 2014 xem bản dịch là văn bản công chứng có phần  gượng ép khi chúng ta tìm lý lẽ, căn cứ để giao lại thẩm quyền này cho CCV sau  một thời gian gián đoạn bởi Luật Công chứng năm 2006. Vì văn bản công chứng theo quan niệm của Công chứng La-tinh không chỉ là tính xác thực về thời gian địa  điểm, chữ ký mà cả xác thực về nội dung thể hiện rõ ý chí và sự thể hiện ý chí một  cách tự do trước mặt CCV của chủ thể. Bản dịch không bảo đảm các yếu tố về ý chí,  sự tự do thể hiện ý chí và cũng không xác thực về chữ ký (vì trong bản dịch chỉ có  chữ ký của người dịch là công tác viên của tổ chức hành nghề công chứng). Mặt  khác, việc tồn tại hai mặt bằng pháp lý 7cho một vấn đề với giá trị khác nhau, chi phí  rất chênh lệch8là chưa thuyết phục người dân, bởi người dân chỉ cần dịch các loại  giấy tờ hợp pháp sang thứ tiếng mà họ cần chứ họ không phải thực hiện các công  việc, hành vi của một giao dịch dân sự được công chứng.

Ở nước ta, thuở ban đầu tái lập, công chứng là một thể thống nhất, không phân  biệt với chứng thực, dù các chủ thể thực hiện là khác nhau với tên gọi chứng nhận,  chứng thực hay xác nhận. Sau đó, công chứng – chứng thực đã có sự phân biệt dựa  vào chủ thể thực hiện nhưng vẫn tiếp tục quy định chung trong cùng một văn bản  quy phạm pháp luật. Tiếp đó, công chứng – chứng được xác định là hai hoạt động  riêng đặc thù khác nhau, một bên là hoạt động bổ trợ tư pháp được xã hội hóa, một  bên là hoạt động hành chính tư pháp do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện theo  thủ tục hành chính với Luật Công chứng tách riêng độc lập điều chỉnh hoạt động  công chứng, nghề công chứng, còn việc chứng thực vẫn tiếp tục thuộc phạm vi điều  chỉnh của nghị định do Chính phủ ban hành, công chứng không được “lấn sân” sang  lĩnh vực chứng thực (đây là giai đoạn thi hành Luật Công chứng năm 2006 và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc,  chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký). Và tiếp đến giai đoạn hiện  nay, thì phạm vi điều chỉnh của Luật Công chứng năm 2014 đã cho phép CCV không  chỉ được quyền công chứng hợp đồng, giao dịch mà thực hiện cả việc công chứng  bản dịch, chứng thực bản sao, chữ ký theo pháp luật về chứng thực.

Trong đề án xây dựng Luật Công chứng (sửa đổi) của Bộ Tư pháp thì phạm vi điều  chỉnh của Luật Công chứng đã xác định rõ là công chứng hợp đồng, giao dịch; ngoài  ra công chứng viên còn được chứng thực chữ ký người dịch, chứng thực chữ ký cá  nhân trên giấy tờ, tài liệu và chứng thực bản sao. Cùng với đó là lộ trình để chuyển  giao thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch từ UBND cấp xã về cho CCV ở  những địa phương mà mức độ xã hội hóa công chứng đã phát triển cao. Việc chuyển  giao này phù hợp với chủ trương và bản chất của hợp đồng, giao dịch do các các chủ  thể xác lập, thực hiện trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận nên  nếu tiếp tục giao cơ quan hành chính thực hiện theo quy trình của các thủ tục hành  chính trong mối quan hệ pháp luật hành chính mà xét về bản chất là quan hệ phát  sinh trong hoạt động chấp hành – điều hành, quản lý hành chính Nhà nước, nội dung  của quan hệ pháp luật hành chính là các quyền và nghĩa vụ hành chính của các bên  tham gia quan hệ đó. Đây là quan hệ được điều chỉnh bởi pháp luật hành chính, vì  vậy, phải có một bên được sử dụng quyền lực Nhà nước, chủ thể còn lại là đối tượng  quản lý. Trong quan hệ pháp luật hành chính quyền của bên này tương ứng với nghĩa  vụ của bên kia và ngược lại không giống như các quan hệ khác. Như trong quan hệ  dân sự các bên chủ thể vừa mang quyền, vừa mang nghĩa vụ với nhau. Quan hệ pháp  luật hành chính có đặc trưng là quan hệ phục tùng, thể hiện sự bất bình đẳng về ý  chí giữa các bên tham gia quan hệ. 

Vì vậy, để giúp giảm gánh nặng về biên chế và chi ngân sách nhà nước cho đội ngũ  cán bộ, công chức, thì ngoài việc chuyển giao thẩm quyền thực hiện chứng thực  hợp đồng, giao dịch hiện nay của UBND cấp xã về với công chứng cho phù hợp  với lý luận và thực tiễn của các mối quan hệ hình thành trên cơ sở “thuận mua, vừa  bán”, “hài lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, tránh đến mức tối đa dùng biện  pháp hành chính khi mà chúng ta đã có biện pháp, cơ chế khác hữu hiệu, thúc đẩy  theo nguyên tắc thị trường, dùng cơ chế thị trường để giải quyết vấn đề mới là giải  pháp căn cơ cần hướng tới. Nguyên tắc những gì mà xã hội làm được, làm tốt thì  Nhà nước phải bàn giao, ủng hộ và tạo điều kiện cho xã hội làm. Nhà nước chỉ hỗ  trợ, thúc đẩy phát triển, tham gia khâu quản lý, giám sát, kiểm tra. Hiện nay, với số  lượng CCV, TCHNCC đã đủ để có thể làm tốt việc chứng thực bản sao, chữ ký, chữ  ký người dịch, vậy tại sao chúng ta không mạnh dạn xã hội hóa một cách triệt để  lĩnh vực đề này để vừa góp phần thực hiện chủ trương tinh giảm biên chế, giảm áp lực cho ngân sách nhà nước lại nâng cao chất lượng phục vụ? Nếu muốn có sự thống nhất trong tư duy và nhận thức để chuyển hóa thành hành động, thì Luật Công chứng (sửa đổi) cần thiết kế thêm điều khoản về việc chuyển giao cả việc chứng thực bản  sao, chữ ký do UBND cấp xã đang thực hiện và chứng thực chữ ký người dịch của Phòng Tư pháp đang đảm nhiệm sang cho CCV để các cơ quan hành chính nhà  nước này dành thời gian, nhân lực tập trung thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ quản  lý nhà nước đúng chức năng, vai trò của mình. Việc này được thực hiện sẽ góp  phần thiết thực củng cố vững chắc nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân  dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 

Các văn bản điều chỉnh hoạt động công chứng và luật công chứng ra đời trong bối  cảnh, điều kiện kinh tế – xã hội lịch sử cụ thể, phù hợp với thực tiễn khách quan của  đất nước chứ không chỉ là sự chủ quan duy ý chí, nhưng tính dự báo và tầm nhìn vẫn  chưa đáp ứng được sự phát triển ở các vùng miền khác nhau trên phạm vi cả nước,  khu vực mà điều kiện phát triển kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng  xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người … nên chúng ta chưa có  những quy định đặc thù, riêng thích hợp trong tổng thể quy định chung. Sự thay đổi,  biến động và phát triển của hoạt động công chứng, nghề công chứng cũng phản ánh  đúng quy luật về sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng theo quan điểm  của chủ nghĩa Mác – Lênin cả trong tư duy và nhận thức đến xây dựng pháp luật đều  gắn liền với thực tiễn và điều kiện kinh tế – xã hội, cơ sở hạ tầng trong từng thời kỳ quyết định đến chính sách pháp luật. 

Và hiện nay, sau 07 năm thi hành Luật Công chứng năm 2014, Bộ Tư pháp đã tổng  kết lại những kết quả đạt được thì hoạt động công chứng được đánh giá là chưa bắt  kịp tiến bộ và ứng dụng công nghệ thông tin trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển  đổi số. Nguyên nhân quan trọng được chỉ ra là do các quy định về trình tự, thủ tục  công chứng còn khá cứng nhắc, chưa tạo nền tảng pháp lý cho việc chuyển đổi số.  Việc khắc phục điều này là một trong những mục tiêu của quá trình xây dựng Luật  Công chứng (sửa đổi). Song song với việc cải tiến quy trình công chứng truyền  thống, để tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi số hoạt động công chứng, Bộ Tư  pháp lựa chọn giải pháp sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng theo hướng thừa nhận  giá trị pháp lý của văn bản công chứng điện tử và xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia  về công chứng.9

Trong kỷ nguyên chuyển đổi số nếu công chứng không muốn bị bỏ lại phía sau, thì  phải kịp thời thay đổi tư duy và cách làm để phục vụ ngày càng tốt hơn cho sự phát  triển kinh tế – xã hội. Luật Công chứng mới phải thực sự tạo cơ sở nền tảng cho công  chứng chuyển mình thành công chứng điện tử, công chứng số. Do vậy, với dự kiến  sửa đổi như trên là phù hợp, phản ánh đúng hiện thực khách quan khi mà xã hội đã  dần thay đổi phương thức sản xuất, thói quen tiêu dùng, hình thức kinh doanh, cung cấp dịch vụ trong chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng, để công chứng góp phần vào việc  xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, thực hiện chuyển đổi số quốc gia  một cách toàn diện để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số. Có như vậy, thì  chúng ta mới có thể sớm hoàn thành mục tiêu mà Nghị quyết số 172/NQ-CP ngày  19/11/2020 của Chính phủ về chính sách phát triển nghề công chứng đặt ra là “Phát  triển nghề công chứng ổn định, bền vững nhằm tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức  tiếp cận dịch vụ công chứng, bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp  đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá  nhân, tổ chức; đổi mới hoạt động công chứng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và cải cách tư pháp, đưa hoạt động công chứng Việt Nam hội  nhập với khu vực và thế giới.”

2.Về phạm vi công chứng 

Trước khi thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng, Việt Nam chưa thừa nhận  công chứng là một dịch vụ. Hoạt động công chứng được cung cấp hoàn toàn bởi cơ  quan nhà nước, các công chứng viên đồng thời là công chức nhà nước. Ngay cả sau  khi hoạt động công chứng được xã hội hóa theo Luật Công chứng năm 2006 với sự  tham gia của tư nhân thì công chứng cũng vẫn chưa chính thức được công nhận là  một dịch vụ theo đúng nghĩa. Không có bất cứ một chữ “dịch vụ” nào được nhắc  đến trong Luật Công chứng năm 2006. Tuy nhiên, về thực chất, sau khi có sự tham  gia của khối tư nhân vào hoạt động công chứng, những dấu hiệu của dịch vụ đã thể  hiện. Các văn phòng công chứng hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân hoặc  công ty hợp danh, hạch toán tài chính độc lập như một doanh nghiệp sản xuất kinh  doanh, nguồn thu ngoài phí công chứng còn có thù lao công chứng và các chi phí  khác. Đặc biệt, cách ứng xử của CCV và nhân viên TCHNCC đối với người yêu cầu  công chứng đã mang tính phục vụ rõ hơn, người yêu cầu công chứng trở thành khách  hàng thực sự chứ không giống như cách họ đi làm một thủ tục hành chính trước đây. 

Công chứng chính thức được coi là một dịch vụ và ghi nhận trong Luật Công chứng  năm 2014, đây là một điểm mới rất quan trọng so với Luật Công chứng năm 2006  và các quy định trước đó. Sự thừa nhận này làm nên những thay đổi căn bản trong  nhận thức của những người hành nghề công chứng, người yêu cầu công chứng và cả  các thành phần khác trong xã hội về hoạt động công chứng. 

Phạm vi là giới hạn của một cái gì hay của một hoạt động, một vấn đề. Việc mở  rộng phạm vi công chứng bắt buộc hay tự nguyện chính là việc bảo đảm cung cấp  dịch vụ công chứng đáp ứng yêu cầu của xã hội mà Nhà nước căn cứ thực tiễn và  nhu cầu của xã hội thấy cần điều chỉnh ở mức độ nhất định để bảo đảm trật tự xã  hội, trật tự quản lý, bảo đảm quyền sở hữu tài sản cho công dân, doanh nghiệp, các tổ chức một cách hữu hiệu, giảm chi phí xã hội đến mức thấp nhất khi tham gia giao  dịch dân sự. 

Công chứng trong các văn bản, qua các thời kỳ, khái niệm về công chứng có sự khác  nhau nhưng về cơ bản đều thống nhất xác định: công chứng là việc chứng nhận tính  xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch theo quy định hay yêu cầu và việc  chứng nhận đó do một người được Nhà nước bổ nhiệm, nhưng không phải là công  chức (Nhà nước không trả lương cho họ, mà thu nhập của họ là từ nguồn thu phí,  thù lao của việc chứng nhận do khách hàng trả cho họ theo khung giá của Nhà nước  hoặc do thỏa thuận của hai bên – công chứng viên và khách hàng, trừ giai đoạn  trước khi thi hành Luật Công chứng năm 2006).

a) Cách thức quy định phạm vi công chứng từ quá khứ đến hiện tại 

Không kể 02 thông tư làm tiền đề cho việc tái lập hoạt động công chứng ở Việt Nam, thì các việc công chứng được chính thức ghi nhận và quy định tại Nghị định số 45- HĐBT ngày 27.02.1991 về tổ chức và hoạt động của công chứng Nhà nước. Nghị  định này chưa có khái niệm về thẩm quyền địa hạt mà chỉ liệt kê các loại việc công  chứng tại Điều 15. Công chứng viên thực hiện các việc công chứng sau đây: 

1- Chứng nhận các hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và các hợp đồng khác; 2- Chứng nhân giấy uỷ quyền; 

3- Chứng nhân di chúc, chứng nhận khước từ hoặc nhường quyền hưởng di  sản, chứng nhân giấy thuận phân chia di sản; 

4- Chứng nhận tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng của vợ hoặc  chồng; 

5- Chứng nhận kháng nghị hàng hải; 

6- Chứng nhận chữ ký của người dịch giấy tờ, tài liệu; 

7- Chứng nhận bản sao giấy tờ, tài liệu tiếng Việt và tiếng nước ngoài; 8- Nhận giữ giấy tờ, tài liệu; 

9- Cấp bản sao văn bản công chứng và giấy tờ, tài liệu hiện đang lưu giữ; 10- Các việc công chứng khác do pháp luật quy định. 

Nghị định số 31/CP ngày 18.5.1996, Điều 18. Phòng Công chứng Nhà nước thực  hiện các việc sau đây: 

  1. Chứng nhận hợp đồng kinh tế, hợp đồng bán đấu giá bất động sản, hợp  đồng gửi giữ tài sản, hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài; chứng nhận biên  bản của Hội đồng định giá tài sản bằng hiện vật đầu tư ban đầu của chủ doanh  nghiệp tư nhân; chứng nhận việc trình kháng nghị hàng hải; chứng nhận bản  dịch đơn yêu cầu, bản án và quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết  định của Trọng tài nước ngoài có liên quan đến công dân hoặc tổ chức Việt Nam để toà án Việt Nam xem xét, công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;  chứng nhận bản dịch các giấy tờ bằng tiếng nước ngoài về việc người nước  ngoài kết hôn với công dân Việt Nam, nhận người Việt Nam là con ngoài giá  thú, nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, nhận đỡ đầu người Việt Nam, chứng  nhận bản dịch di chúc bằng tiếng nước ngoài ra tiếng Việt. 
  2. Chứng nhận các việc theo quy định của pháp luật phải được công chứng. 
  3. Chứng nhận theo yêu cầu của đương sự các việc mà pháp luật giao cho  công chứng chứng nhận hoặc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực.

Cả 02 nghị định này đều quy định các hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu bất động  sản phải được chứng nhận tại Phòng Công chứng Nhà nước nơi có bất động sản đó;  đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì việc chứng nhận văn bản thế chấp, cầm  cố, bảo lãnh được thực hiện tại Phòng Công chứng Nhà nước nơi đăng ký tài sản đó. Đồng thời, Phòng Công chứng được quyền chứng thực chữ ký, chữ ký người dịch,  chứng thực bản sao. 

Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08.12.2000 về công chứng, chứng thực, Điều  21. Thẩm quyền công chứng của Phòng Công chứng:

  1. Các việc sau đây chỉ thuộc thẩm quyền của Phòng Công chứng :
  • a) Công chứng hợp đồng, giao dịch có yếu tố nước ngoài; 
  • b) Công chứng hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản thuộc thẩm  quyền địa hạt của Phòng Công chứng theo quy định tại khoản 1 Điều 23 của  Nghị định này;  
  • c) Công chứng hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản có giá trị từ 50  triệu đồng trở lên; 
  • d) Công chứng bản dịch giấy tờ từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc  ngược lại;  
  • đ) Công chứng chữ ký của người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước  ngoài trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch ở trong nước  và ở nước ngoài, chữ ký của công dân Việt Nam trong các giấy tờ phục vụ  cho việc thực hiện các giao dịch ở nước ngoài; 
  • e) Nhận lưu giữ di chúc; 
  • g) Các việc khác do pháp luật quy định.

2. Phòng Công chứng được công chứng các việc thuộc thẩm quyền chứng  thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 22 của Nghị định này,  trừ hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản thuộc thẩm quyền địa hạt  của Ủy ban nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2 Điều 23 của Nghị định  này. Phòng Công chứng được công chứng tất cả các việc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã quy định tại Điều 24 của Nghị định  này.

Điều 23. Thẩm quyền địa hạt của Phòng Công chứng và Ủy ban nhân dân  cấp huyện trong việc công chứng, chứng thực hợp đồng, giao dịch liên  quan đến bất động sản  

  1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thẩm quyền địa hạt công  chứng hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản trong địa phương mình  cho từng Phòng Công chứng. “Địa hạt” là một hoặc một số quận, huyện, thị  xã, thành phố thuộc tỉnh. 
  2. Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã chứng thực hợp đồng, giao dịch liên  quan đến bất động sản trong phạm vi địa hạt của huyện, quận, thị xã mình mà  không thuộc thẩm quyền địa hạt của Phòng Công chứng quy định tại khoản 1  Điều này. 
  3. Việc công chứng, chứng thực di chúc, văn bản từ chối nhận di sản liên quan  đến bất động sản không phải tuân theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều  này.

Luật công chứng 2006, Điều 37. Thẩm quyền công chứng hợp đồng, giao dịch  về bất động sản: 1. Công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng có thẩm  quyền công chứng các hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành  phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường  hợp quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Công chứng viên của các tổ chức hành nghề  công chứng có thẩm quyền công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất  động sản. 

Luật công chứng 2014, Điều 42. Phạm vi công chứng hợp đồng, giao dịch về bất  động sản: Công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng chỉ được công chứng  hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung  ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di  chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản ủy quyền liên quan đến  việc thực hiện các quyền đối với bất động sản. 

Như vậy, kể từ Luật Công chứng năm 2006 trở đi, luật chỉ còn quy định phạm vi  công chứng giới hạn theo loại tài sản là bất động sản hay động sản. Nếu tài sản đó  là bất động sản thì thẩm quyền công chứng là của CCV đang hành nghề tại tổ chức  hành nghề thuộc tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương nơi bất động sản tọa lạc. Phạm  vi công chứng đối với các việc công chứng cụ thể, các hợp đồng, giao dịch cụ thể  được quy định rải rác trong các đạo luật, bộ luật khác nhau nhưng tập trung chủ yếu tại Luật Đất đai và Luật Nhà ở, loại bất động sản quan trọng và có tác động sâu rộng  trên nhiều mặt của đời sống, ảnh hưởng đến lớn đến sự ổn định và phát triển kinh tế  – xã hội, bởi đất đai có tính lịch sử, nguồn gốc đa dạng10, là vấn đề hệ trọng, hết sức  phức tạp, nhạy cảm, đặc biệt quan trọng, hệ trọng đối với sự ổn định và phát triển  đất nước. Giải quyết tốt chính sách đất đai sẽ thúc đầy giải phóng sức lao động, các  nguồn lực cho phát triển đất nước, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội11. Trước  thời điểm Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành (ngày 01/7/2004), các giao  dịch về quyền sử dụng đất không thuộc phạm vi công chứng mà là việc chứng thực  của UBND cấp xã, cấp huyện. Chỉ sau khi thực hiện Luật Đất đai năm 2003, thì  CCV mới được quyền chứng nhận các giao dịch này với đặc trưng là theo thẩm  quyền địa hạt cho đến khi Luật Công chứng năm 2006 có hiệu lực thi hành. 

b) Phạm vi công chứng theo quy định tại các đạo luật hiện nay và định hướng  cho tương lai 

Việc có quy định yêu cầu bắt buộc công chứng đối với các hợp đồng, giao dịch về  nhà ở và quyền sử dụng đất hay không đã từng được thảo luận, tham vấn ý kiến từ  các bộ ngành, các chuyên gia trước khi ban hành Luật Đất đai năm 2013, Luật Nhà  ở năm 2014. Nhiều ý kiến tán thành quan điểm bãi bỏ yêu cầu bắt buộc công chứng  và cho rằng Bộ Luật dân sự đã quy định người dân có quyền tự định đoạt trong các  giao dịch dân sự với nhiều hình thức như giao dịch bằng miệng giữa hai bên, bằng  văn bản hoặc hợp đồng có sự làm chứng của bên thứ ba. Theo đó, người dân có  quyền tự quyết định có công chứng hay không. Nếu người dân thấy cần thiết phải  công chứng để phòng ngừa rủi ro trong giao dịch nhà đất thì người dân đi công  chứng, còn nếu không thì thôi, khi đó hoạt động công chứng sẽ chuyển từ áp đặt  mang tính công quyền sang hoạt động cung cấp dịch vụ cho người dân, trao quyền  tự quyết cho người dân, giảm phiền hà, tiết kiệm chi phí cho dân. Sự tồn tại và phát  triển của hoạt động công chứng do chất lượng dịch vụ mà họ cung cấp cho người  dân.12 

Rõ ràng việc bắt buộc phải công chứng, chứng thực là một hình thức hạn chế quyền  công dân khi mà pháp luật yêu cầu họ phải tuân thủ và làm những việc nhất định  mới được pháp luật công nhận và bảo hộ. Theo tinh thần tại Điều 14.2 Hiến pháp  năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo  quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,  trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.” thì phạm vi công  chứng bắt buộc đối với các hợp đồng, giao dịch phải quy định bằng luật khi và chỉ  khi thỏa mãn được ít nhất một trong các lý do này.

* Danh mục các hợp đồng, giao dịch pháp luật bắt buộc phải công chứng:

 

III. KẾT LUẬN VÀ MỘT VÀI KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT 

  1. Bản chất của công chứng có phải là tổng hòa của các yếu tố “công quyền”,  “công cộng” và “công ích” không? 

Từ lịch sử hình thành và phát triển nghề công chứng đã cho thấy rằng công chứng là  việc CCV (một chức danh tư pháp do Nhà nước bổ nhiệm) sử dụng quyền lực công  để mà làm chứng với sự khách quan, trung thực chứng nhận tính xác thực, tính hợp  pháp của hợp đồng, giao dịch được xác lập, thực hiện, qua đó góp phần phòng ngừa  tranh chấp, hạn chế rủi ro, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và bảo đảm an toàn pháp  lý cho các bên bằng chính bởi những tình tiết, sự kiện đã được CCV ghi nhận trong  văn bản công chứng và lưu giữ làm bằng chứng. Như vậy, chức năng của công chứng  phải là tổng hòa của các yếu tố “công quyền”, “công cộng” và “công ích”. Bởi thông  qua hoạt động hành nghề, CCV không chỉ phục vụ riêng cho người yêu cầu công  chứng mà còn đã góp phần củng cố niềm tin trong xã hội, duy trì trật tự công cộng,  làm cho trật tự pháp luật được tôn trọng, lợi ích chung của xã hội được bảo đảm, góp phần vào sự ổn định phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập quốc tế. 

Công chứng là làm chứng – sử dụng quyền lực công – lưu giữ, bảo vệ, cung cấp chứng cứ được luật quy định mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ để biến nó thành  kết quả cụ thể trong thực tiễn phải thông qua hành vi của CCV với đạo đức, năng  lực, tay nghề thuần thục, đi đôi với một cơ chế kiểm tra, giám sát quá trình hình  thành sản phẩm đầu ra là văn bản công chứng, để kịp thời khắc phục, chấn chỉnh sai  phạm, phát hiện cái hay để nhân rộng, lan tỏa. Cần đưa vào luật quy định hàng năm  thực hiện các cuộc kiểm tra, giám sát chéo lẫn nhau giữa các CCV đang hành nghề  dưới sự chủ trì của cơ quan quản lý nhà nước (bước đầu trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, dần từng bước mở rộng phạm vi giữa các địa phương  với nhau), để đánh giá lại quá trình hình thành và ghi nhận các tình tiết, sự kiện vào  văn bản công chứng đã bảo đảm tính xác thực, hợp pháp để củng cố chức năng phòng  ngừa tranh chấp, hạn chế rủi ro hay chưa? 

Để nâng cao chất lượng dịch vụ công chứng thì phải xác định đây là giải pháp cần  nghiên cứu để đưa vào Luật Công chứng (sửa đổi). Giải pháp này ở nhiều nước theo  hệ thống công chứng La-tinh đã quy định và chứng minh hiệu quả (Pháp, Đức…),  nó vừa có tính cấp bách (để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh hành vi vi phạm), vừa có tính lâu dài, bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững của nghề công chứng. Chỉ cần  đưa vào luật việc này, thì ngay lập tức đã có tác động đến nhận thức và tâm lý của  CCV khi mà họ biết chắc rằng mình sẽ bị/được kiểm tra, giám sát hồ sơ đã thực hiện  công chứng bởi chính các CCV đồng nghiệp, nên họ không thể không hình thành  thói quen làm việc có ý thức để luôn tự điều chỉnh hành vi hành nghề của mình. Về  lâu dài, đây sẽ là công cụ pháp lý giúp cho việc tuân thủ pháp luật, áp dụng pháp  luật của CCV được thống nhất và chặt chẽ, nền nếp, ý thức tự giác tuân thủ pháp  luật, quy tắc đạo đức hành nghề ngày càng được nâng cao.

  1. Để thực hiện lộ trình chuyển giao thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao  dịch từ UBND cấp xã về cho công chứng, và có thể là cả việc chứng thực bản  sao, chứng thực chữ ký và chữ ký người dịch từ các Phòng Tư pháp nhằm giảm  tải công việc cho cơ quan hành chính, tinh giảm biên chế và chi ngân sách Nhà  nước, thì cần phải đa dạng hóa các hình thức hành nghề công chứng của CCV. 

Ngoài 02 loại hình là phòng công chứng và văn phòng công chứng như hiện nay,  Luật Công chứng (sửa đổi) có thể mở ra hướng nghiên cứu bổ sung loại hình mới  phù hợp với công cuộc chuyển đổi số nền kinh tế, sự bùng nổ của kinh tế chia sẻ,  văn phòng chia sẻ với rất nhiều ưu điểm, tiện ích trong bối cảnh cuộc cách mạng  công nghiệp 4.0 với khoảng 70% dân số Việt Nam sử dụng internet, và cũng là nước  có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Loại hình này có thể lấy Hội CCV tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương làm trung tâm với mô hình văn phòng  chia sẻ, cùng sử dụng chung bộ máy hình chính, giúp việc, kế toán, thuế, lưu trữ và  là đầu mối liên hệ để bảo đảm CCV thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước. Các CCV  sẽ cùng nhau đóng góp một mức kinh phí nhất định cộng với tỷ lệ tương ứng theo số hồ sơ và thu nhập tăng thêm. Khi đó, CCV có nhiều cơ hội lựa chọn hình thức  hành nghề phù hợp, phát triển hệ sinh thái công chứng hoàn chỉnh, đáp ứng đa dạng  các nhu cầu công chứng của người dân, doanh nghiệp kịp thời, nhanh chóng, thuận lợi. 

Ở những vùng không có điều kiện để thành lập TCHNCC, ít giao dịch dân sự như  biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người… thì người dân vẫn có nhu cầu được thụ hưởng dịch vụ pháp lý chất lượng cao, phục vụ chuyên  nghiệp, Luật có thể quy định cho phép CCV hoạt động theo loại hình văn phòng  công chứng chia sẻ lấy trụ sở Hội CCV làm trung tâm và mỗi CCV được phép đặt  địa điểm làm việc tại các nơi đó để hành nghề (tương tự như địa điểm kinh doanh  trong Luật Doanh nghiệp hiện nay). 

Việc này được quy định sẽ tăng thêm cách thức pháp luật bảo đảm quyền hành nghề  công chứng của CCV, nhất là đối với những CCV mới bổ nhiệm không có điều kiện  để thành lập văn phòng công chứng và cũng không muốn đi làm thuê bằng việc ký  hợp đồng lao động với văn phòng công chứng.

  1. Hoạt động công chứng phát triển đúng với bản chất, chức năng, phạm vi là  nền tảng cho nghề công chứng, đội ngũ CCV và TCHNCC phát triển ổn định,  bền vững, góp phần cho sự phát triển kinh tế – xã hội ổn định, bền vững. 

Định hướng Luật Công chứng (sửa đổi) có dự thảo điều khoản quy định cụ thể các  hợp đồng, giao dịch dân sự bắt buộc phải công chứng (thực tế là gom các quy định  rải rác tại các luật khác nhau về một mối) là hướng đi khoa học và phù hợp với thực  tiễn, bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất, thuận tiện, đồng bộ. 

Việc pháp luật quy định bắt buộc phải công chứng, chứng thực đối với các hợp đồng,  giao dịch nằm rải rác trong các đạo luật khác nhau mà chưa có luật nào gom về một  mối để thống nhất cách thực hiện, kiểm soát đã gây ra không ít khó khăn, bất cập,  làm ảnh hưởng đến sự nhận thức đầy đủ, tiềm ẩn rủi ro trong việc áp dụng và tuân  thủ pháp luật của người dân và cả cơ quan quản lý nhà nước. Nếu không khắc phục  cách làm chưa thật sự khoa học này sẽ khó bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp  luật, không tạo điều kiện thuận lợi cho công chứng phát triển ngày càng bền vững,  người hành nghề an tâm cống hiến, nhất là khi sửa đổi các luật luôn xuất hiện xu hướng muốn bãi bỏ công chứng bắt buộc mà chưa thấy hết được giá trị của việc  phòng ngừa, hạn chế rủi ro lớn hơn rất nhiều so với số chi phí bỏ ra để thực hiện  công chứng.

  1. Đã đến lúc luật cần quy định các hợp đồng, giao dịch đối với/liên quan đến  bất động sản giữa chủ đầu tư là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản với  khách hàng phải công chứng hay chưa? 

Doanh nghiệp tham gia thị trường luôn gắn liền với trách nhiệm xã hội, đạo đức kinh  doanh. Nhưng doanh nghiệp nào sinh ra cũng với mục đích chính là kinh doanh  nhằm tìm kiếm lợi nhuận, làm sao cho lợi nhuận là tối đa, chi phí là tối thiểu nên  phải có công cụ thể chế pháp luật để kiểm soát, vừa bảo đảm quyền tự do kinh doanh  được thuận lợi, vừa bảo đảm hài hòa lợi ích, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng  của người tiêu dùng, người giao kết hợp đồng, giao dịch với doanh nghiệp. Hiện nay, số vụ án liên quan đến đất đai chiếm trên 70% số vụ án được xét xử hàng năm. Trong giai đoạn từ 2013-2020, cơ quan hành chính các cấp tiếp nhận 324.241 đơn  khiếu nại liên quan đến đất đai, chiếm 62,9% tổng số đơn khiếu nại. 13

Trong các báo cáo của ngành tòa án không có số liệu thống kê về các vụ án liên quan  đến hợp đồng, giao dịch đã được công chứng, và cũng không có số liệu về các vụ án  liên quan đến doanh nghiệp kinh doanh bất động sản được tự ký hợp đồng, giao dịch  với khách hàng không phải công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, theo báo cáo tổng  kết 07 năm thi hành Luật Công chứng năm 2014 của Bộ Tư pháp thì chỉ có khoảng 0,01% các vụ án liên quan đến hợp đồng, giao dịch đã được công chứng, và số vụ  việc có bản án yêu cầu bồi thường thiệt hại là rất ít, với tổng số khoảng hơn 12 tỷ  đồng, nhiều địa phương không có trường hợp nào phải bồi thường thiệt hại cho người  yêu cầu công chứng. 

Trong điều kiện thực tế hiện nay, khi mà công tác quản lý, điều tiết thị trường, trong  đó có thị trường bất động sản, còn nhiều bất cập, rất nhiều vụ án liên quan đến doanh  nghiệp kinh doanh bất động sản vi phạm phạm pháp luật khi ký hợp đồng, giao dịch  với người mua, nhận chuyển nhượng khi chưa đủ điều kiện để huy động vốn, thậm  chí lừa đảo, điển hình như chỉ một vụ án Tập đoàn địa ốc Alibaba mà báo chí đã  đăng14, với vai trò chủ mưu của Nguyễn Thái Luyện thành lập 22 pháp nhân, vẽ ra  nhiều dự án không có thật đã làm thiệt hại cho 4.361 người, lừa đảo chiếm đoạt số  tiền 2.264 tỷ đồng; để điều tra, truy tố, xét xử thì Nhà nước đã tiêu tốn rất nhiều  nguồn lực vật chất, con người khi phải huy động một lực lượng đông đảo cán bộ,  chiến sỹ công an, các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,  thư ký cùng với bộ phận làm công tác bảo vệ tài liệu điều tra, công tác văn thư lưu  trữ cùng khối lượng công việc, thời gian, công sức cho việc ghi chép, lấy lời khai  cho 01 triệu bút lục. Nếu pháp luật quy định các hợp đồng, giao dịch bất động sản  của các doanh nghiệp này khi ký với khách hàng dưới các hình thức khác nhau để nhằm mục đích huy động vốn đều phải công chứng mới có giá trị pháp lý thì có xảy  ra những hậu quả đáng tiếc, khó khắc phục như vậy không? 15 

Chưa kể rất nhiều doanh nghiệp tìm đủ kiểu lách luật huy động vốn khi chưa đủ điều  kiện, đơn giản vì vốn huy động từ khách hàng bao giờ chi phí cũng rẻ hơn vốn vay 16. Thậm chí có không ít trường hợp đã huy động được vốn qua hành vi lách luật dưới hình thức thỏa thuận hợp đồng nguyên tắc để bán, chuyển nhượng, hợp đồng đặt  cọc, thỏa thuận đăng ký giữ chỗ … mà thị trường có biến động hoặc sau đó thấy nội  dung thỏa thuận bất gây lợi cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẳn sàng thông báo  đơn phương chấm dứt hợp đồng, cần nữa thì kiện khách hàng ra tòa để tuyên bố hợp  đồng vô hiệu 17.

Thực tiễn các nước và Việt Nam đã chứng minh công chứng thực hiện tốt vai trò,  chức năng phòng ngừa tranh chấp, hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn pháp lý, giúp cho  người dân, cơ quan quản lý có thể cập nhật, theo dõi và tra cứu dữ liệu lịch sử giao  dịch nên việc lựa chọn công chứng bắt buộc các hợp đồng, giao dịch về bất động  của sản của doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này sẽ góp phần làm cho thị  trường bất động sản phát triển ổn định, minh bạch, bền vững, người dân “an cư, lạc  nghiệp”, qua đó còn góp phần đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất18. Bởi  ngay cả hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được thực hiện bởi Đấu giá viên – một  chức danh tư pháp mà khi đấu giá thành đối với tài sản là bất động sản pháp luật vẫn  quy định phải công chứng, chứng thực.

Khi bắt buộc phải công chứng, chứng thực, pháp luật cần tính toán để có thể giảm phí công chứng áp dụng cho doanh nghiệp kinh doanh bất động sản tương tự với  mức phí công chứng hợp đồng mua bán tài sản đấu giá hiện nay 19, thủ tục cũng cần  đơn giản hơn, vì CCV chỉ cần kiểm tra tính pháp lý của dự án bảo đảm điều kiện  huy động vốn, ký hợp đồng với khách hàng một lần khi doanh nghiệp đăng ký chữ  ký mẫu20, đồng thời với đó là có thể giảm mức phí bảo lãnh ngân hàng trong bán,  cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai theo quy định tại Điều 56.1 Luật kinh  doanh bất động sản năm 2014, vì đã có biện pháp công chứng hạn chế rủi ro, giúp  doanh nghiệp tiết giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác, đối với các hợp  đồng, giao dịch nhằm mục đích huy động vốn cho dự án kinh doanh bất động sản  phải ràng buộc chủ đầu tư thỏa thuận điều khoản thanh toán qua ngân hàng, hạn chế  thỏa thuận thanh toán bằng tiền mặt21 ngay trong hợp đồng, văn bản, theo đó chủ  đầu tư phải mở tài khoản riêng để nhận tiền từ người mua, nhận chuyển nhượng  (chuyển khoản hoặc nộp tiền vào tài khoản) tại ngân hàng chấp nhận bảo lãnh cho  dự án đó, để bảo đảm sử dụng đúng mục đích số tiền đã huy động được vào việc  hoàn thành dự án đúng tiến độ.

Phòng cháy luôn tốt hơn là chữa cháy. Nếu coi tranh chấp là “bệnh”, xét xử là “chữa  bệnh” thì công chứng được coi là “phòng bệnh”. Phòng bệnh vẫn luôn tốt hơn là  chữa bệnh. Phòng cháy tốt sẽ không phải chữa cháy, vì thiệt hại không xảy ra. Khi  pháp luật giúp cho người dân thực hiện biện pháp phòng ngừa như “phòng cháy”, không xảy ra tranh chấp, rủi ro gây thiệt hại để phải “chữa cháy” sẽ làm người dân  an tâm sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, tin tưởng vào hoạt động bổ trợ tư pháp là công chứng khi cần giao dịch với nhau. Phòng bệnh để cho giao dịch luôn  trong trạng thái khỏe mạnh, yên lành, mang lại kết quả như ý. Công chứng một giao  dịch giống như tiêm một liều vaccine, có tác dụng ngăn ngừa rủi ro. Cảm giác của  người dân khi chi một khoản tiền phí công chứng có thể cũng khó chịu như khi bị  một mũi tiêm, do đó không phải ai cũng tự nguyện đi công chứng hay đi tiêm phòng. 

Kết quả công chứng hay tiêm phòng đều không thể đánh giá được ngay tại thời điểm thực hiện công việc đó ngoại trừ những đánh giá mang tính cảm quan bề ngoài như  thái độ phục vụ hay mức chi phí. Kết quả của việc tiêm phòng chỉ có thể được đánh  giá khi dịch bệnh tràn qua, cũng như kết quả của việc công chứng chỉ có thể được  đánh giá khi xảy ra những tranh chấp pháp lý. Tuy nhiên, dịch bệnh hay tranh chấp  pháp lý có thể rất ít hoặc không xảy ra, do đó kết quả công việc có thể rất ít hoặc  không có điều kiện để đánh giá. Rủi ro chỉ có thể được ngăn ngừa ở mức tương đối  chứ không thể đạt đến mức tuyệt đối, tuy nhiên chuyên môn tốt và dịch vụ tốt sẽ bảo  đảm tỷ lệ rủi ro là thấp nhất. Không phải ai cũng hiểu một cách tích cực về công việc  âm thầm của CCV hay bác sỹ y tế dự phòng. Nhiệm vụ của người cung cấp dịch vụ  là phải giải thích để cho người được phục vụ hiểu được tính chất của dịch vụ, làm  cho người dân thấy công chứng là cần thiết, khuyến khích người dân, doanh nghiệp thực hiện công chứng hợp đồng, giao dịch như định hướng phát triển nghề công  chứng đã nêu tại Nghị quyết số 172/2020/NQ-CP ngày 19/11/2020, bởi “Công  chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp – một loại hình dịch vụ công nhằm bảo đảm an  toàn pháp lý cho các bên giao dịch, phòng ngừa vi phạm pháp luật, chứ không phải  là một thủ tục hành chính”./.

TPHCM, ngày 15/8/2022

Chú thích: 

* Về cách ghi nhận các điều khoản trong bài viết, để bảo đảm ngắn gọn, dễ tra cứu, tác giả đã không ghi  theo cách truyền thống được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản  hướng dẫn thi hành mà lựa chọn cách ghi như sau, ví dụ: Điều 17.1,2 Luật kinh doanh bất động sản năm  2014 = khoản 1 và khoản 2 Điều 17 của Luật kinh doanh bất động sản năm 2014. 

* Các từ viết tắt: CCV = Công chứng viên; TCHNCC = Tổ chức hành nghề công chứng 

1 Nguyễn Anh Tuấn, Khảo lược Bộ luật Hammurabi của Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại, Nxb CTQG 2008,  tr.112, 113, 115, 124 …; 

2 Liên minh Công chứng quốc tế, Các nguyên tắc cơ bản của hệ thống công chứng La-tinh, thông qua  ngày 8 tháng 11 năm 2005 tại Rome, Italie, Bản dịch của Bộ Tư pháp; 

3 Phụng công, thủ pháp: chăm lo việc công, giữ gìn pháp luật, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội  – 2002, tập 5, tr.382; 

4 https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/phung-cong-thu-phap-chi-cong-vo-tu-439409 

5 ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, Hà Nội -2021, tr.284-287; 

6 Các văn bản pháp luật về khu công nghiệp, khu chế xuất, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008  của Chính phủ, sau đó thẩm quyền này đã bị bãi bỏ bởi Điều 25.3 Nghị định số 04/2013/NĐ-CP ngày  07/01/2013, nhưng đến Nghị định số 164/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 đã khôi phục thẩm quyền xác nhận  này và chỉ hết thẩm quyền khi Chính phủ ban hành Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 quy định  về quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế có hiệu lực thi hành ngày 10/7/2018 thay thế Nghị định số  29/2008/NĐ-CP và Nghị định số 164/2013/NĐ-CP; 

7 Điều 61 Luật Công chứng năm 2014, từ Điều 27-33 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của  Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực  hợp đồng, giao dịch;

8 Thông tư số 257/2016/TT-BTC ngày 11/7/2016 của Bộ Tài chính đã sửa đổi bổ sung bởi Thông tư số  111/2017/TT-BTC ngày 20/10/2017 quy định mức phí công chứng bản dịch là 10.000 đồng/trang với bản  dịch thứ nhất, nếu nhiều bản thì mức tối đa đến 200.000 đồng/bản. Thông tư số 226/2016/TT-BTC ngày  11/7/2016 của Bộ Tài chính quy định mức phí chứng thực chữ ký người dịch là 10.000 đồng/trường hợp.  Trường hợp được hiểu là một hoặc nhiều chữ ký trong cùng một giấy tờ, văn bản; 

9 Bộ Tư pháp, Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Công chứng (sửa  đổi), Hà Nội, tháng 7/2022; 

10 Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban chấp hành Trung ương về “Tiếp tục đổi mới, hoàn  thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở  thành nước phát triển có thu nhập cao”; 

11 Tài liệu triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban chấp hành Trung ương về “Tiếp  tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng đất, tạo động lực  đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao” được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trình  bày sáng ngày 21/7/2022;

12 http://moc.gov.vn/vn/_layouts/15/NCS.Webpart.MOC/mt_poup/Intrangweb.aspx?IdNews=12331 

13 Tài liệu triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban chấp hành Trung ương, đã dẫn  trên; 

14 https://tuoitre.vn/toa-se-cang-rap-de-xet-xu-vu-alibaba-140-ruong-ho-so-1-trieu-but-luc-4-361-bi-hai 20220728143952868.htm  

15 https://plo.vn/chung-cu-monarchy-chua-nghiem-thu-da-ban-cho-khach-hang-post627745.html 

https://tuoitre.vn/cong-an-binh-duong-bat-hang-loat-giam-doc-cong-ty-bat-dong-san-ve-du-an 20220524221632726.htm 

https://tuoitre.vn/bat-tam-giam-giam-doc-31-tuoi-ve-du-an-bat-dong-san-roi-rao-ban 20210122162302743.htm 

https://thanhnien.vn/bat-giam-hoang-manh-cuong-tong-giam-doc-cong-ty-phat-an-gia-vi-ban-du an-ma-post1006308.html 

https://plo.vn/xet-xu-chu-du-an-ocean-view-nha-trang-lua-hang-chuc-khach-hang 

post689696.html 

16 https://plo.vn/so-xay-dung-khuyen-cao-ve-dat-coc-giu-cho-mua-nha-post660984.html https://plo.vn/du-an-the-muse-da-nang-chua-duoc-huy-dong-von-post683019.html 

https://plo.vn/xet-xu-vu-6-lanh-dao-cong-ty-bds-nha-dat-dong-nai-lua-ban-dat-chiem-doat-hon 100-ti-dong-post692530.html 

17 https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/la-lung-chu-dau-tu-kien-khach-hang-tuyen-hop-dong-vo hieu-1390558.html 

18 Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022, đã dẫn trên, tại mục 2.6 Phần IV Nhiệm vụ, giải pháp; 

19 Thông tư số 257/2016/TT-BTC ngày 11/7/2016 của Bộ Tài chính đã sửa đổi bổ sung bởi Thông tư số  111/2017/TT-BTC ngày 20/10/2017 quy định mức phí công chứng theo giá trị tài sản: nếu dưới 5 tỷ đồng  thu 90 nghìn đồng/trường hợp; từ 5 tỷ đồng đến dưới 20 tỷ đồng thu 270 nghìn đồng/trường hợp; trên 20  tỷ đồng thu 470 nghìn đồng; 

20 Điều 48.1 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Trong trường hợp người có thẩm quyền giao kết hợp  đồng của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề công chứng thì người đó có thể ký trước vào hợp đồng; công chứng viên phải đối chiếu chữ ký của họ trong hợp đồng  với chữ ký mẫu trước khi thực hiện việc công chứng.” 

21 Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022, đã dẫn trên, tại mục 2.4 và mục 2.6 Phần IV Nhiệm vụ, giải  pháp.